Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy và hồi ức về chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
Phóng viên Báo Lao Động đã có cuộc chia sẻ với Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy tại TP. Hồ Chí Minh vào dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30.4.1975 - 30.4.2025).
Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy gặp lại đồng đội ở Long Thành (Đồng Nai). Ảnh: Việt Văn
Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy, sinh năm 1931, nguyên Phó Tư lệnh, Tham Mưu Trưởng Quân khu 2, Phó Tư lệnh sư đoàn 325, đã tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc.
Trong cuốn sách mang tên “Valley Vets II - an oral history" của tác giả William L. Adam (Mỹ) về chiến tranh Việt Nam, đã có 1 chương nhắc đến tướng Huy và gọi sư đoàn quân chủ lực F.325 do ông chỉ huy là “Sư đoàn Gió lốc” để nói về tài cầm quân của ông. Ông đã tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, là Phó tư lệnh Sư đoàn 325, Quân đoàn 2.
Cảm xúc lớn nhất của ông trong thời khắc Sài Gòn được giải phóng?
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tôi tham gia chỉ huy lực lượng từ hướng Đông Nam, phối hợp tiến vào nội đô. Trưa ngày 30.4, khi biết tin lá cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, cảm xúc chúng tôi vỡ òa khôn tả. Tôi nghĩ đến quê hương, đến người mẹ ngóng tin con suốt bao năm, nghĩ đến hàng triệu gia đình đã chịu chia cắt. Và tôi biết, từ hôm đó, dân tộc mình đã thật sự là một.
Sau 50 năm, ký ức nào về chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử khiến ông vẫn còn xúc động mỗi khi nhớ lại?
Nhớ nhất là vào Dinh Độc Lập, cứ như một giấc mơ vì không nghĩ chiến dịch thần tốc đến thế. Ngày 29.3, chúng tôi còn ở Đà Nẵng, cách xa Sài Gòn gần 1.000 cây số. Vậy mà khoảng 2h chiều 30.4, chúng tôi đã đặt chân vào Dinh Độc Lập.
Từ chiến khu Việt Bắc đến những trận đánh ác liệt ở Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào, rồi đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh, ông đã chứng kiến và trực tiếp tham gia vào những giai đoạn lịch sử trọng đại của dân tộc. Theo ông, phẩm chất nào là quan trọng nhất đối với một người chỉ huy quân sự, đặc biệt trong những thời khắc sinh tử của chiến tranh?
Người chỉ huy không chỉ dũng cảm mà phải mưu trí, chỉ huy kịp thời để thay đổi cách đánh cho phù hợp. Trận Long Thành lúc đầu “đánh nhanh, rút nhanh”.
Nhưng khi địch chặn lại, thương vong quá lớn. Chỉ huy phải thay đổi cách đánh để hiệu quả, chuyển sang “đánh đâu chắc đấy”, giải phóng được Long Thành. Hay như giải phóng Đà Nẵng, Sư đoàn 325, hướng phía Bắc tôi trực tiếp chỉ huy.
Ngày 27, 28.3 chiếm Lăng Cô nhưng lúc đó ta chưa có hỏa lực mạnh, chỉ có cối 120 ly. Đến sáng 29, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đưa đội xe tăng vào tăng cường hỏa lực mạnh và sức cơ động cao. Quân địch hoang mang khi thấy xe tăng.
Mình lại không dùng cách đánh chắc mà dùng hỏa lực bắn ngắn, cho bộ đội ngồi trên xe tăng, thọc vào đánh chiếm đèo Hải Vân. 5h sáng nổ súng đánh, 10h đã vào trung tâm thành phố, 13h30 vào quân cảng bán đảo Sơn Trà và giành thắng lợi, giải phóng toàn bộ thành phố Đà Nẵng.
Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy thắp hương tại Nghĩa trang liệt sĩ Long Thành chiều 27.4. 2025. Ông là người đã tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Ảnh: Việt Văn
Ông từng nhiều lần nhấn mạnh: Tình đồng đội trong chiến tranh là cao quý nhất. Ông có thể đưa ra một vài minh chứng?
Có lần tôi đang đi kiểm tra tình hình chiến trường ở Khe Sanh, địch phát hiện bắn pháo khói để chỉ điểm cho máy bay phản lực bỏ bom.
Tôi nhảy xuống giao thông hào, đang đi tìm vị trí để ẩn nấp, lập tức có một chiến sĩ nhảy ra ôm lấy tôi, đẩy vào hầm và nằm bên ngoài để che chắn cho tôi, không cần biết tôi là ai. Chỉ có quân đội ta mới có những người lính sẵn sàng hy sinh cho đồng đội như vậy.
Năm 1967, tôi cũng chôn cất một đồng đội - Đại úy Nguyễn Danh Ngọc, Tham mưu trưởng Trung đoàn 9B - hy sinh trên đất Lào, phía tây sông Sê Pôn.
30 năm sau, khi đã nghỉ hưu, tôi dành thời gian đến Lào để tìm kiếm hài cốt đồng đội năm xưa đưa về quy tập tại nghĩa trang liệt sĩ. Đó là trách nhiệm của người sống đối với người đã hy sinh.
Ông có từng nghĩ, trong chiến tranh, hai bên đối địch cũng có thể dành cho nhau sự kính trọng?
30 năm giải phóng Khe Sanh, có một đoàn cựu chiến binh của Mỹ từng ở Quảng Trị từ năm 1961 đến 1973, quay trở lại Khe Sanh để thăm lại chiến trường xưa. Họ muốn gác lại quá khứ để hướng tới tương lai và mời tôi đến nói chuyện.
Họ hỏi tại sao các ông đánh thắng chúng tôi. Tôi nói rõ: Dù lực lượng các ông ở Khe Sanh rất mạnh, chúng tôi thắng bởi chiến đấu vì chính nghĩa, vì khao khát độc lập tự do thống nhất Tổ quốc.
Tướng lĩnh của chúng tôi tuy không được đào tạo từ các trường danh tiếng trên thế giới như các ông nhưng lại am hiểu địa hình chiến đấu, am hiểu chiến thuật tác chiến, biết lúc nào vây, lúc nào lấn.
Cuối cùng, các ông nhầm khi tưởng đánh với quân giải phóng chỉ mấy chục vạn quân, hóa ra đánh với cả dân tộc Việt Nam và nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam.
Với kinh nghiệm dày dặn qua các cuộc chiến tranh khốc liệt, theo ông, bài học xương máu nào về chiến tranh và hòa bình là quan trọng nhất cần được truyền lại cho các thế hệ sau, đặc biệt trong bối cảnh thế giới hiện nay vẫn còn nhiều xung đột?
Các bạn trẻ đừng quên quá khứ ông cha đã hy sinh để có ngày nay. Hãy biết quý trọng hòa bình, hiểu rằng giữ gìn hòa bình cũng cần dũng cảm và hy sinh, không kém gì ra trận. Các bạn hãy tiếp thu, nâng cao tri thức, tiếp thu khoa học công nghệ thế giới đưa về để phát triển đất nước giàu mạnh.